Bạc Liêu
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Đối với các định nghĩa khác, xem Bạc Liêu (định hướng).
Tỉnh Bạc Liêu | ||
---|---|---|
Tỉnh | ||
Đường phố ở Thành phố Bạc Liêu
| ||
Địa lý | ||
Tọa độ: 9°18′44″B 105°29′36″ĐTọa độ: 9°18′44″B 105°29′36″Đ | ||
Diện tích | 2.526 km² | |
Dân số (2013) | ||
Tổng cộng | 876.800 người | |
Mật độ | 355 người/km² | |
Dân tộc | Việt, Hoa, Khmer | |
| ||
Hành chính | ||
Quốc gia | Việt Nam | |
Vùng | Đồng bằng sông Cửu Long | |
Tỉnh lỵ | Thành phố Bạc Liêu | |
Thành lập |
01/01/1900
tái lập 01/01/1997 | |
Chủ tịch HĐND | Lê Thị Ái Nam | |
Bí thư Tỉnh ủy | Lê Minh Khái | |
Đại biểu quốc hội |
Trương Minh Chiến, Huỳnh Minh Hoàng, Lê Quang Huy, Võ Thị Hồng Thoại, Trần Bình Minh,
Nguyễn Tấn Vạn, | |
Phân chia hành chính |
| |
Mã hành chính | VN-55 | |
Mã bưu chính | 96xxxx | |
Mã điện thoại | 781 | |
Biển số xe | 94 | |
Website | Tỉnh Bạc Liêu |
Bạc Liêu là một tỉnh thuộc duyên hải vùng bằng sông Cửu Long, nằm trên bán đảo Cà Mau, miền đất cực Nam của Việt Nam. Tỉnh Bạc Liêu được thành lập ngày 20 tháng 12 năm 1899 và chính thức hoạt động từ ngày 1 tháng 1 năm 1900. Ngày 22 tháng 10 năm 1956, tỉnh Bạc Liêu bị giải thể nhập vào tỉnh Ba Xuyên. Ngày 8 tháng 9 năm 1964, tỉnh Bạc Liêu được tái lập trở lại. Tháng 2 năm 1976, tỉnh Bạc Liêu lại bị giải thể, nhập vào tỉnh Minh Hải. Ngày 06 tháng 11 năm 1996, tỉnh Bạc Liêu được tái lập thêm lần nữa, chính thức đi vào hoạt động từ ngày 1 tháng 1 năm 1997 cho đến ngày nay.
Bạc Liêu có nhiều dân tộc khác nhau sinh sống như người Hoa, người Việt, người Khmer, người Chăm... Người Bạc Liêu có phong cách phóng khoáng, đặc trưng của vùng Nam Bộ. Bạc Liêu có Công tử Bạc Liêu lừng danh một thuở giàu có và chịu chơi, ngoài ra vùng đất này còn gắn liền với tên tuổi của nhạc sĩ Cao Văn Lầu và bài Dạ cổ hoài lang đặt nền móng cho sự phát triển của nền cổ nhạc Nam Bộ. Bạc Liêu được nhiều người biết đến bởi nghề làm muối, muối Bạc Liêu xưa nay vốn nổi tiếng về chất lượng do không có vị đắng, chát và ít lẫn tạp chất. Thời Pháp, Mỹ, hoạt động kinh doanh muối Bạc Liêu rất rộng lớn, chiếm cứ toàn vùng Nam Bộ, ra tới tận Phan Thiết miền Trung và đặc biệt giao lưu xuất khẩu theo đường sông Mêkông qua Campuchia, hiện nay nghề làm muối tuy không còn thịnh như trước nhưng Bạc Liêu vẫn là vùng sản xuất muối lớn nhất miền Tây.
Bạc Liêu từng là vùng đất có một vị trí quan trọng trong chiến lược khai thác và xây dựng vùng Đồng bằng sông Cửu Long củangười Pháp, được người Pháp lên kế hoạch xây dựng thành trung tâm hành chính của miền Tây, đồng thời đầu tư nhiều tiền của xây cất dinh thự và công sở tại đây. Bạc Liêu cũng nổi tiếng là vùng đất có nhiều người Hoa sinh sống qua câu ca dao:
“ | Bạc Liêu là xứ cơ cầu,
dưới sông cá chốt trên bờ Triều Châu
| ” |
Mục lục
[ẩn]Vị trí địa lý và phạm vi lãnh thổ[sửa | sửa mã nguồn]
Tỉnh Bạc Liêu nằm trên bán đảo Cà Mau, thuộc Đồng bằng sông Cửu Long, miền đất cực nam của Việt Nam, với diện tích đất tự nhiên là 2.570 km2, chiếm gần 0.8% diện tích cả nước và đứng hàng thứ 7 trong khu vực Đồng bằng sông Cửu Long. Phía bắc giáp với Hậu Giang, phía đông và đông bắc giáp với Sóc Trăng, phía tây nam giáp với Cà Mau, phía tây bác giáp với Kiên Giang, phía đông nam giáp với Biển Đông với đường bờ biển dài 56 km.
Tọa độ địa lý của tỉnh Bạc Liêu:
- Điểm cực Bắc ở vĩ độ 9o37’00’’ Bắc tại xã Vĩnh Lộc A, huyện Hồng Dân
- Điểm cực Nam ở Vĩ độ 9o00’00’’ Bắc tại thị trấn Gành Hào, huyện Đông Hải
- Điểm cực Tây ở Kinh độ 105o15’00’’ Đông tại xã Tân Thạnh, thị xã Giá Rai
- Điểm cực Đông ở Kinh độ 105o52’30’’ Đông tại xã Hưng Thành, huyện Vĩnh Lợi
Vùng biển thuộc quyền quản lý của tỉnh Bạc Liêu rộng hơn 20.000 km2, một vùng biển giàu tiềm năng, nguồn lợi hải sản rất phong phú và đa dạng. Bạc Liêu nằm ở vị trí trung chuyển trên tuyến đường giao thông huyết mạch quan trọng của cả nước (quốc lộ 1A), cách thành phố Cần Thơ khoảng 110 km và thành phố Hồ Chí Minh khoảng 280 km về phía Bắc; hiện nay còn có các tuyến đường mới như Nam Sông Hậu, Ngã Bảy - Cà Mau (Quản Lộ - Phụng Hiệp) đi qua địa phận tỉnh Bạc Liêu. Đây là điều kiện rất thuận lợi cho Bạc Liêu trong sự giao lưu, phát triển kinh tế.
Địa lý tự nhiên[sửa | sửa mã nguồn]
Bạc Liêu có địa hình khá bằng phẳng, không có đồi, núi chính vì lẽ đó cũng không có các chấn động địa chất lớn. Địa hình chủ yến là đồng bằng, sông rạch và kênh đào chằng chịt. Bạc Liêu nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, thời tiết chia thành hai mùa rõ rệt là mùa mưa và mùa khô. Mùa khô hay còn gọi là mùa nắng thường bắt đầu từ tháng 10, tháng 11 năm trước đến tháng 4, tháng 5 năm sau. Mùa mưa bắt đầu từ tháng 4, tháng 5 đến tháng 10, tháng 11. Nhiệt độ trung bình năm 28,50C, nhiệt độ thấp nhất trong năm là 180C, nhiệt độ cao nhất trong năm là 360C. Bạc Liêu thuộc hệ sinh thái rừng ngập mặn các rừng chủ yến như rừng tràm, chà là, giá, cóc, lâm vồ,... Bên dưới là thảm thực vật gồm cỏ và các loài dây leo[1]. Rừng Bạc Liêu có 104 loài thực vật, 10 loài thú nhỏ, 8 loài bò sát,...
Bạc Liêu có bờ biển dài 56 km. Biển Bạc Liêu có nhiều loài tôm, cá, ốc, sò huyết,... Hàng năm, sản lượng khai thác đạt gần 100 nghìn tấn cá, tôm. Trong đó, sản lượng tôm gần 10 nghìn tấn. Hệ thống sông ngòi tại Bạc Liêu chia làm hai nhóm. Nhóm 1 chảy ra hải lưu phía nam, nhóm 2 chảy ra sông Ba Thắc. Bờ biển thấp và phẳng rất thích hợp để phát triển nghề làm muối, trồng trọt hoặc nuôi tôm, cá. Hàng năm, sự bồi lấn biển ở Bạc Liêu ngày một tăng. Đây là điều kiện lý tưởng cho Bạc Liêu phát triển thêm quỹ đất, đồng thời là yếu tố quan trọng đưa kinh tế biển của Bạc Liêu phát triển[2].
Đơn vị hành chính[sửa | sửa mã nguồn]
Hiện nay, Bạc Liêu có 7 đơn vị hành chính cấp huyện, bao gồm 1 thành phố, 1 thị xã , 5 huyện , trong đó có 63 đơn vị hành chính cấp xã, gồm có 10 phường, 5 thị trấn và 49 xã.
Ðơn vị hành chính cấp Huyện | Thành phố Bạc Liêu | Thị xã Giá Rai | Huyện Hồng Dân | Huyện Hòa Bình | Huyện Phước Long | Huyện Vĩnh Lợi | Huyện Đông Hải | ||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Diện tích (km²) | 175,4 | 344,6 | 423,6 | 411,8 | 404,8 | 249,4 | 561,6 | ||||||
Dân số (người) | 240.045 | 140.516 | 105.200 | 106.800 | 117.700 | 102.000 | 143.590 | ||||||
Mật độ dân số (người/km²) | 1371 | 408 | 248 | 259 | 290 | 409 | 256 | ||||||
Số đơn vị hành chính | 7 phường (1, 2, 3, 5, 7, 8, Nhà Mát); 3 xã (Hiệp Thành, Vĩnh Trạch, Vĩnh Trạch Đông) | 3 phường (1, Hộ Phòng, Láng Tròn); 7 xã (Phong Tân, Phong Thạnh, Phong Thạnh A, Phong Thạnh Đông, Phong Thạnh Tây, Tân Phong, Tân Thạnh) | 1 thị trấn (Ngan Dừa); 8 xã (Lộc Ninh, Ninh Thạnh Lợi, Ninh Thạnh Lợi A, Ninh Hòa, Ninh Quới, Ninh Quới A, Vĩnh Lộc, Vĩnh Lộc A) | 1 thị trấn (Hòa Bình); 7 xã (Minh Diệu, Vĩnh Bình, Vĩnh Hậu, Vĩnh Hậu A, Vĩnh Mỹ A, Vĩnh Mỹ B, Vĩnh Thịnh) | 1 thị trấn (Phước Long); 7 xã (Hưng Phú, Phong Thạnh Tây A, Phong Thạnh Tây B, Phước Long, Vĩnh Phú Đông, Vĩnh Phú Tây, Vĩnh Thanh) | 1 thị trấn (Châu Hưng); 7 xã (Châu Hưng A, Châu Thới, Hưng Hội, Hưng Thành, Long Thạnh, Vĩnh Hưng, Vĩnh Hưng A) | 1 thị trấn (Gành Hào); 10 xã (An Phúc, An Trạch, An Trạch A, Điền Hải, Định Thành, Định Thành A, Long Điền, Long Điền Đông, Long Điền Đông A, Long Điền Tây) | ||||||
Năm thành lập | 2010[3] | 2015 | 1947 | 2005[4] | 1920 | 1900 | 2002[5] | ||||||
Nguồn: Website tỉnh Bạc Liêu |
Lịch sử[sửa | sửa mã nguồn]
Thời phong kiến[sửa | sửa mã nguồn]
Tên gọi "Bạc Liêu", đọc giọng Triều Châu là "Pô Léo", có nghĩa là xóm nghèo, làm nghề hạ bạc, tức nghề chài lưới, đánh cá, đi biển. Pôphát âm theo tiếng Hán Việt là "Bạc" và Léo phát âm là "Liêu". Ý kiến khác lại cho rằng "Pô" là "bót" hay "đồn", còn "Liêu" có nghĩa là "Lào" (Ai Lao) theo tiếng Khơme, vì trước khi người Hoa kiều đến sinh sống, nơi đó có một đồn binh của người Lào. Còn đối với người Pháp, họ căn cứ vào tên Pô Léo theo tiếng Triều Châu nên họ gọi vùng đất này là Phêcheri - chaume có nghĩa là "đánh cá và cỏ tranh". Tuy nhiên cũng có ý kiến cho rằng tên gọi Bạc Liêu xuất phát từ tiếng Khmer Po Loenh, nghĩa là cây đa cao.
Năm 1680, Mạc Cửu với vai trò là một di thần nhà Minh ở Trung Quốc đến vùng Mang Khảm chiêu tập một số lưu dân người Việt, người Hoa cư trú ở Mang Khảm, Phú Quốc, Rạch Giá, Long Xuyên (Cà Mau), Luống Cày (Lũng Kỳ), Hưng úc (tức Vũng Thơm hay Kompong som), Cần Bột (Campốt) lập ra những thôn xóm đầu tiên trên vùng đất Bạc Liêu.
Năm 1708, Mạc Cửu dâng vùng đất Mang Khảm cho chúa Nguyễn Phúc Chu. Chúa Nguyễn Phúc Chu đặt tên toàn bộ thôn xóm vùng này là trấn Hà Tiên, lúc này Mạc Cửu được phong làm Tổng binh trấn Hà Tiên, với tước Cửu Ngọc Hầu. Mạc Cửu lập dinh trại đồn trú tạiPhương Thành, dân cư ngày càng đông đúc hơn. Năm 1757, chúa Nguyễn Phúc Khoát thu nhập thêm vùng đất Ba Thắc, lập ra Trấn Giang (Cần Thơ), Trấn Di (Sóc Trăng, Bạc Liêu). Toàn bộ vùng đất phương Nam thuộc về chúa Nguyễn. Đến năm 1777, Trấn Giang,Trấn Di được bãi bỏ. Năm 1802, vua Gia Long lên ngôi. Năm 1808, trấn Gia Định đổi là thành Gia Định cai quản 5 trấn là Phiên An, Biên Hoà, Định Tường, Vĩnh Thanh (tức Vĩnh Long), Hà Tiên
Năm 1832, vua Minh Mạng bỏ thành Gia Định, chia Nam Kỳ thành lục tỉnh là Biên Hoà, Gia Định, Định Tường, Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên, bao gồm đất từ Hà Tiên đến Cà Mau. Phần đất tỉnh An Giang, tính từ Châu Đốc đến Sóc Trăng và Bạc Liêu tính đến cửa biển Gành Hào. Thời vua Tự Đức, vùng này thuộc phủ Ba Xuyên, rồi sau đó lại tách ra lập thành huyện Phong Thạnh trực thuộc phủ Ba Xuyên, tỉnh An Giang.
Thời Pháp thuộc[sửa | sửa mã nguồn]
Ngày 5 tháng 1 năm 1867, thực dân Pháp chiếm Nam Kỳ Lục tỉnh. Đầu thời Pháp thuộc, phủ Ba Xuyên đổi thành hạt thanh tra Ba Xuyên. Ngày 15 tháng 7 năm 1867, Pháp đổi hạt Ba Xuyên thành hạt thanh tra Sóc Trăng.
Đến ngày 5 tháng 6 năm 1876, Nam Kỳ được Pháp chia thành 24 khu tham biện (inspection) do các viên thanh tra hành chính (inspecteur) đảm nhiệm.
Năm 1877, Nam Kỳ được Pháp điều chỉnh lại còn 20 khu tham biện. Đến ngày 18 tháng 12 năm 1882, Pháp cắt 3 tổng Quảng Long,Quảng Xuyên, Long Thuỷ của đại lý (Dlégation) Cà Mau thuộc địa hạt Rạch Giá (Arrondissement de Rach Gia) và 2 tổng Thạnh Hoà,Thạnh Hưng của đại lý Châu Thành thuộc địa hạt Sóc Trăng và thành lập địa hạt Bạc Liêu (Arrondissement de Bạc Liêu). Địa hạt Bạc Liêu là địa hạt thứ 21 của Nam Kỳ, lúc đầu có 2 đại lý là Vĩnh Lợi và Vĩnh Châu.
Ngày 20 tháng 12 năm 1899, Toàn quyền Đông Dương ký sắc lệnh bỏ xưng danh địa hạt, đổi thành tỉnh, đại lý đổi thành quận. Ngày 1 tháng 1 năm 1900, sắc lệnh trên được áp dụng cho toàn Nam Kỳ, trong đó có hạt tham biện Bạc Liêu đổi thành tỉnh Bạc Liêu. Tỉnh lỵ tỉnh Bạc Liêu đặt tại làng Vĩnh Lợi thuộc quận Vĩnh Lợi.
Tỉnh Bạc Liêu ban đầu chỉ có 2 quận: Vĩnh Lợi và Cà Mau. Năm 1903, lập đại lý hành chánh Cà Mau thuộc tỉnh Bạc Liêu, gồm 3 tổng: Quảng Long, Quảng Xuyên, Long Thủy. Năm 1904, cắt một phần đất của quận Vĩnh Lợi để lập thêm quận Vĩnh Châu. Ngày 16 tháng 5năm 1911, Toàn quyền Đông Dương quyết định nâng đại lý hành chánh Cà Mau lên thành quận Cà Mau trực thuộc tỉnh Bạc Liêu.
Ngày 5 tháng 10 năm 1917, thực dân Pháp chia địa bàn tỉnh Bạc Liêu thành 4 quận trực thuộc:
- Quận Cà Mau gồm 2 tổng Quảng Xuyên, Quảng Long và các làng Tân Lộc, Tân Lợi, Tân Phú, Thới Bình của tổng Long Thủy.
- Quận Vĩnh Lợi gồm các làng Hoà Bình, Hưng Hội, Long Thạnh, Vĩnh Lợi, Vĩnh Trạch của tổng Thạnh Hoà.
- Quận Vĩnh Châu gồm các làng Vĩnh Châu, Vĩnh Phước, Lai Hoà, Khánh Hoà, Lạc Hoà của tổng Thạnh Hưng.
- Quận Giá Rai gồm làng Vĩnh Mỹ của tổng Thạnh Hoà; làng Phong Thạnh, Long Điền của tổng Long Thủy.
Ngày 18 tháng 12 năm 1928, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định thành lập các thị xã Bạc Liêu, Cần Thơ, Rạch Giá và Mỹ Tho trực thuộc các tỉnh cùng tên gọi. Các thị xã này đều có Ủy ban thị xã, thị trưởng do chủ tỉnh bổ nhiệm và có ngân sách riêng. Thị xã Bạc Liêu lúc đó được thành lập trên phần đất làng Vĩnh Lợi.
Ngày 6 tháng 4 năm 1923, tách các làng Tân Lợi, Tân Lộc, Thới Bình của tổng Long Thủy lập tổng mới Long Thới, thuộc quận Cà Mau (có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 1924). Ngày 24 tháng 9 năm 1938, giải thể quận Vĩnh Châu, nhập vào địa bàn quận Vĩnh Lợi; đồng thời tách tổng Quảng Xuyên khỏi quận Cà Mau lập quận mới có tên là quận Quảng Xuyên. Ngày 14 tháng 9 năm 1942, lập cơ sở hàng chính Tân An thuộc quận Cà Mau. Ngày 5 tháng 4 năm 1944, lập quận Thới Bình bao gồm tổng Thới Bình. Ngày 6 tháng 10năm 1944, đổi tên quận Thới Bình thành quận Cà Mau Bắc, đổi tên quận Quảng Xuyên thành quận Cà Mau Nam. Sau đó lại hợp nhất 2 quận Cà Mau Bắc và Cà Mau Nam thành một quận có tên là quận Cà Mau thuộc tỉnh Bạc Liêu.
Năm 1947, chính quyền thực dân Pháp cũng giao quận Phước Long (trước đó thuộc tỉnh Rạch Giá) cho tỉnh Bạc Liêu quản lý.
Giai đoạn 1945-1954[sửa | sửa mã nguồn]
Sau năm 1945, chính quyền kháng chiến của Việt Nam đã nhiều lần thay đổi sắp xếp hành chính của tỉnh Bạc Liêu. Năm 1947, quận Hồng Dân (trước đó có tên là quận Phước Long) thuộc tỉnh Rạch Giá giao hai làng Vĩnh Hưng, Vĩnh Phú về quận Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu.
Năm 1948, tỉnh Bạc Liêu giao quận Vĩnh Châu và làng Hưng Hội về tỉnh Sóc Trăng, đồng thời thành lập thêm quận mới lấy tên là quận Ngọc Hiển. Ngày 13 tháng 11 năm 1948, cắt 2 làng Vĩnh Trạch, Vĩnh Lợi để thành lập thị xã Bạc Liêu. Cùng thời điểm này, tỉnh Sóc Trăng giao làng Châu Thới về Bạc Liêu. Làng Châu Thới hợp nhất với làng Long Thạnh thành làng Thạnh Thới. Năm 1951, thành lập thêm huyện Trần Văn Thời, gồm các xã: Khánh Bình Đông, Khánh Bình Tây, Trần Hợi, Hưng Mỹ, Khánh An, Khánh Lâm. Năm 1952, tỉnh Bạc Liêu tiếp nhận hai huyện An Biên, Hồng Dân của tỉnh Rạch Giá.
Sau Hiệp định Genève, tháng 10 năm 1954 huyện Vĩnh Châu được đưa về tỉnh Bạc Liêu, huyện An Biên và huyện Hồng Dân đưa về tỉnh Rạch Giá. Huyện Vĩnh Lợi và thị xã Bạc Liêu được tái lập.
Giai đoạn 1954-1975[sửa | sửa mã nguồn]
Việt Nam Cộng hòa[sửa | sửa mã nguồn]
Dân số tỉnh Bạc Liêu 1967[6] | |
---|---|
Quận | Dân số |
Giá Rai | 79.897 |
Phước Long | 37.624 |
Vĩnh Châu | 50.323 |
Vĩnh Lợi | 79.625 |
Tổng số | 247.469 |
Ban đầu, chính quyền Quốc gia Việt Nam và sau đó là Việt Nam Cộng hòa vẫn duy trì tên gọi tỉnh Bạc Liêu như thời Pháp thuộc.
Ngày 15 tháng 2 năm 1955, Thủ hiến Nam Việt của chính quyền Quốc gia Việt Nam (tiền thân củaViệt Nam Cộng hòa) quyết định tạm sáp nhập vùng Chắc Băng và quận An Biên thuộc tỉnh Rạch Giávào tỉnh Sóc Trăng. Ngày 24 tháng 5 năm 1955, quyết định sáp nhập ba quận An Biên, Phước Longvà Chắc Băng để thành lập đặc khu An Phước thuộc tỉnh Sóc Trăng, nhưng không lâu sau lại cho giải thể đặc khu này. Sau đó, quận An Biênvà vùng Chắc Băng lại trở về thuộc tỉnh Rạch Giá như cũ.
Ngày 9 tháng 3 năm 1956, theo Sắc lệnh 32/VN, chính quyền Việt Nam Cộng hòa lấy phần lớn diện tích đất của tỉnh Bạc Liêu bao gồm quận Cà Mau và 4 xã của quận Giá Rai là Định Thành, Hoà Thành, Tân Thành, Phong Thạnh Tây để thành lập tỉnh Cà Mau; tỉnh lỵ ban đầu cũng có tên là Cà Mau. Tỉnh Bạc Liêu còn lại 4 quận: Vĩnh Lợi, Vĩnh Châu, Giá Rai, Phước Long.
Ngày 22 tháng 10 năm 1956, Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Ngô Đình Diệm ra Sắc lệnh số 143-NV để " thay đổi địa giới và tên Đô thành Sài Gòn – Chợ Lớn cùng các tỉnh và tỉnh lỵ tại Việt Nam". Địa giới và địa danh các tỉnh ở miền Nam thay đổi nhiều, một số tỉnh mới được thành lập. Theo Sắc lệnh này, địa phận Nam Phần của Việt Nam Cộng Hoàgồm Đô thành Sài Gòn và 22 tỉnh. Lúc này vùng đất tỉnh Bạc Liêu cũ thời Pháp thuộc có sự thay đổi hành chính như sau:
- Đổi tên tỉnh Cà Mau thành tỉnh An Xuyên, còn tỉnh lỵ Cà Mau thì đổi tên là "Quản Long".
- Thành lập tỉnh Ba Xuyên trên cơ sở hợp nhất phần đất tỉnh Sóc Trăng và tỉnh Bạc Liêu trước đó, tỉnh lỵ đặt tại Sóc Trăng nhưng lúc này lại bị đổi tên là "Khánh Hưng". Như vậy, lúc này tỉnh Bạc Liêu đã bị giải thể.
Ngày 13 tháng 01 năm 1958, theo Nghị định số 9-BNV/NC/NP của chính quyền Việt Nam Cộng hòa, quận Vĩnh Châu bị giải thể av2 sáp nhập vào quận Vĩnh Lợi. Tuy nhiên, đến ngày 5 tháng 12 năm 1960, tái lập quận Vĩnh Châu thuộc tỉnh Ba Xuyên. Ngày 21 tháng 12 năm 1961, quận Phước Long được chính quyền Việt Nam Cộng hòa giao về cho tỉnhChương Thiện mới được thành lập. Ngày 18 tháng 4 năm 1963, thành lập mới quận Kiến Thiện thuộc tỉnh Chương Thiện trên cơ sở tách một phần đất đai của các quận Phước Long và Long Mỹ cùng tỉnh.
Bạc Liêu hồi thời Pháp thuộc rất sung túc, dân cư đông đảo, nổi tiếng là xứ ăn xài, lắm khách hào hoa phong nhã, chợ búa mua bán phồn thịnh, nền kinh tế dồi dào. Cho đến khi chính phủ Ngô Đình Diệm chấp chánh, tỉnh Bạc Liêu bị sáp nhập vào tỉnh Ba Xuyên (Sóc Trăng cũ) trước kia thịnh vượng đông đảo bao nhiêu, bây giờ lại hóa ra u trệ bấy nhiêu. Vì bỗng dưng bị thu hẹp lại thành một quận là quận Vĩnh Lợi, trọn 9 năm châu thành Bạc Liêu lâm vào cảnh vắng vẻ, nền kinh tế bị sụp đổ, du khách có dịp đi ngang qua cảm tưởng cho là một tỉnh bị chiến tranh tàn phá.[7]
Suốt 9 năm dưới thời chính quyền Đệ nhất Cộng hòa của Tổng thống Ngô Đình Diệm, Bạc Liêu từ một tỉnh phát triển mạnh ngày nào dưới thời Pháp thuộc bị thu hình lại thành một quận lỵ nhỏ nhoi (tức quận Vĩnh Lợi). Thời Pháp thuộc, Cà Mau ngày nào chỉ là một quận lỵ nhỏ, thua xa tỉnh lỵ Bạc Liêu thì lúc này, Bạc Liêu lại trở thành quận lỵ Vĩnh Lợi thua cả tỉnh lỵ Quản Long (tức Cà Mau cũ).[7]
Ngày 8 tháng 9 năm 1964, Thủ tướng chính quyền mới của Việt Nam Cộng hòa ký Sắc lệnh số 254/NV quy định kể từ ngày 01 tháng 10 năm 1964 tái lập tỉnh Bạc Liêu trên cơ sở tách các quận Vĩnh Lợi, Giá Rai, Vĩnh Châu của tỉnh Ba Xuyên và quận Phước Long của tỉnh Chương Thiện. Riêng quận Kiến Thiện vẫn thuộc tỉnh Chương Thiện cho đến năm1975. Tỉnh lỵ tỉnh Bạc Liêu có tên là "Vĩnh Lợi", do lấy theo tên xã Vĩnh Lợi thuộc quận Vĩnh Lợi là nơi đặt tỉnh lỵ. Tỉnh Bạc Liêu gồm 4 quận: Vĩnh Lợi, Vĩnh Châu, Giá Rai, Phước Long cho đến năm 1975.
Ngày 11 tháng 7 năm 1968, tách một phần nhỏ đất đai của xã Hưng Hội, quận Vĩnh Lợi thuộc tỉnh Bạc Liêu giao về cho quận Hòa Tú mới được thành lập trực thuộc tỉnh Ba Xuyên; đổi lại quận Vĩnh Lợi thuộc tỉnh Bạc Liêu nhận thêm xã Châu Thới vốn trước đó thuộc quận Thạnh Trị, tỉnh Ba Xuyên.
Ngày 11 tháng 3 năm 1970, quận Vĩnh Lợi thuộc tỉnh Bạc Liêu nhận thêm một phần đất đai trước đó thuộc xã Châu Hưng, quận Thạnh Trị, tỉnh Ba Xuyên và cũng nhận lại phần đất đai trước đó thuộc xã Hưng Hội nhưng từng bị cắt chuyển về thuộc quận Hòa Tú thuộc tỉnh Ba Xuyên; đồng thời nửa phía bắc xã Châu Thới thuộc quận Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu cũng lại sáp nhập vào xã Châu Hưng thuộc quận Thạnh Trị, tỉnh Ba Xuyên. Bên cạnh đó, dải đất rộng 1500m chạy dọc sông Mỹ Thanh thuộc các xã Khánh Hòa và Vĩnh Phước của quận Vĩnh Châu thuộc tỉnh Bạc Liêu cũng giao về cho quận Hòa Tú thuộc tỉnh Ba Xuyên.
Chính quyền Cách mạng[sửa | sửa mã nguồn]
Năm 1957, Liên Tỉnh uỷ miền Tây giải thể tỉnh Bạc Liêu, đồng thời đưa các huyện Giá Rai, Vĩnh Lợi, Vĩnh Châu, Hồng Dân, thị xã Bạc Liêu giao về tỉnh Sóc Trăng quản lý. Tỉnh uỷSóc Trăng quyết định hợp nhất huyện Vĩnh Châu và huyện Vĩnh Lợi, thành huyện Vĩnh Lợi - Vĩnh Châu. Năm 1962, huyện Giá Rai sáp nhập vào tỉnh Cà Mau. Năm 1963, Tỉnh uỷSóc Trăng quyết định giải thể huyện Vĩnh Lợi - Vĩnh Châu để tái lập huyện Vĩnh Lợi và huyện Vĩnh Châu. Ngày 07 tháng 03 năm 1972, nhập xã Vĩnh Hưng của huyện Giá Rai vào huyện Vĩnh Lợi.
Trong giai đoạn 1964-1973, địa bàn tỉnh Bạc Liêu của chính quyền Việt Nam Cộng hòa vẫn do tỉnh Sóc Trăng của chính quyền cách mạng quản lý, ngoại trừ huyện Giá Rai thuộc tỉnh Cà Mau. Tháng 11 năm 1973, Khu ủy Tây Nam Bộ quyết định tái lập tỉnh Bạc Liêu, gồm 4 đơn vị hành chính cấp huyện: Vĩnh Lợi, Giá Rai, Hồng Dân và thị xã Bạc Liêu. Tuy nhiên, chính quyền Cách mạng vẫn đặt huyện Vĩnh Châu thuộc tỉnh Sóc Trăng cho đến đầu năm 1976.
Sau ngày 30 tháng 04 năm 1975, chính quyền quân quản Cộng hòa miền Nam Việt Nam ban đầu vẫn duy trì tỉnh Bạc Liêu cho đến đầu năm 1976. Lúc này, chính quyền Cách mạng cũng bỏ danh xưng "quận" có từ thời Pháp thuộc và lấy danh xưng "huyện" (quận và phường dành cho các đơn vị hành chánh tương đương khi đã đô thị hóa).
Ngày 20 tháng 9 năm 1975, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 245-NQ/TW về việc bỏ khu, hợp tỉnh trong toàn quốc "nhằm xây dựng các tỉnh thành những đơn vị kinh tế, kế hoạch và đơn vị hành chính có khả năng giải quyết đến mức cao nhất những yêu cầu về đẩy mạnh sản xuất, tổ chức đời sống vật chất, văn hóa của nhân dân, về củng cố quốc phòng, bảo vệ trị an, và có khả năng đóng góp tốt nhất vào sự nghiệp chung của cả nước". Theo Nghị quyết này, tỉnh Cà Mau, tỉnh Bạc Liêu và hai huyện Vĩnh Thuận, An Biên (ngoại trừ 2 xã Đông Yên và Tây Yên) của tỉnh Rạch Giá sẽ hợp nhất lại thành một tỉnh, tên gọi tỉnh mới cùng với nơi đặt tỉnh lỵ sẽ do địa phương đề nghị lên.
Nhưng đến ngày 20 tháng 12 năm 1975, Bộ Chính trị lại ra Nghị quyết số 19/NQ điều chỉnh lại việc hợp nhất tỉnh ở miền Nam Việt Nam cho sát với tình hình thực tế, theo đó tỉnhCà Mau và tỉnh Bạc Liêu được tiến hành hợp nhất vào ngày 1 tháng 1 năm 1976 với tên gọi ban đầu là tỉnh Cà Mau - Bạc Liêu.
Tỉnh Minh Hải giai đoạn 1976-1996[sửa | sửa mã nguồn]
Ngày 10 tháng 3 năm 1976, tỉnh Cà Mau - Bạc Liêu được đổi tên thành tỉnh Minh Hải, đồng thời thị xã Bạc Liêu cũng được đổi tên là thị xã Minh Hải. Tỉnh Minh Hải ban đầu gồm thị xã Minh Hải, thị xã Cà Mau và 7 huyện là Vĩnh Lợi, Hồng Dân, Giá Rai, Châu Thành, Thới Bình,Trần Văn Thời, Ngọc Hiển. Tỉnh lỵ tỉnh Minh Hải ban đầu đặt tại thị xã Minh Hải.
Ngày 11 tháng 07 năm 1977, Hội đồng chính phủ nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam ra quyết định số 181-CP giải thể huyện Châu Thành. Các xã của huyện này được nhập vào các huyện Giá Rai, Trần Văn Thời và Thới Bình. Ngày 29 tháng 12 năm 1978, Hội đồng chính phủ ra quyết định số 326-CP lập thêm 6 huyện mới là Phước Long, Cà Mau, U Minh, Phú Tân, Cái Nước, Năm Căn. Số huyện trong tỉnh tăng lên 12 huyện.
Ngày 30 tháng 08 năm 1983, Hội đồng Bộ trưởng ra quyết định số 94-HĐBT giải thể huyện Cà Mau, các xã của huyện này được sáp nhập vào thị xã Cà Mau và các huyện Giá Rai, Thới Bình, Cái Nước. Tỉnh còn lại 2 thị xã và 11 huyện.
Ngày 17 tháng 05 năm 1984, Hội động Bộ trưởng ra nghị định số 75-HĐBT đã đổi tên thị xã Minh Hải thành thị xã Bạc Liêu trực thuộc tỉnh Minh Hải. Hợp nhất huyện Hồng Dân và huyện Phước Long lấy tên là huyện Hồng Dân. Hợp nhất huyện Cái Nước và huyện Phú Tân thành huyện Cái Nước.
Ngày 17 tháng 12 năm 1984, Hội đồng Bộ trưởng ra quyết định 168/HĐBT đổi tên huyện Năm Căn thành huyện Ngọc Hiển (mới), đồng thời đổi tên huyện Ngọc Hiển (cũ) thành huyện Đầm Dơi. Đồng thời chuyển tỉnh lỵ tỉnh Minh Hải từ thị xã Bạc Liêu về thị xã Cà Mau. Lúc này, tỉnh Minh Hải có 11 đơn vị hành chính trực thuộc là thị xã Cà Mau, thị xã Bạc Liêu và 9 huyện là Vĩnh Lợi, Hồng Dân, Giá Rai, Thới Bình, U Minh, Cái Nước, Trần Văn Thời, Đầm Dơi, Ngọc Hiển.
Tỉnh Bạc Liêu từ năm 1997 đến nay[sửa | sửa mã nguồn]
Ngày 6 tháng 11 năm 1996, kỳ họp thứ 10, Quốc hội khoá IX, ra Nghị quyết chia và điều chỉnh địa giới một số tỉnh. Theo đó, chia tỉnh Minh Hải thành tỉnh Bạc Liêu và tỉnh Cà Mau. Tỉnh Bạc Liêu lúc này gồm có thị xã Bạc Liêu (tỉnh lị) và 3 huyện: Giá Rai, Hồng Dân, Vĩnh Lợi.
Ngày 25 tháng 8 năm 1999, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị định số 82/1999/NĐ-CP[8], về việc điều chỉnh địa giới hành chính xã thuộcthị xã Bạc Liêu và các huyện Hồng Dân, Giá Rai. Ngày 25 tháng 09 năm 2000, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị định số 51/2000/NĐ-CP[9], điều chỉnh địa giới hành chính huyện Hồng Dân để thành lập huyện Phước Long, tỉnh Bạc Liêu. Ngày 24 tháng 12 năm 2001, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị định số 98/2001/NĐ-CP, chia huyện Giá Rai, tỉnh Bạc Liêu thành hai huyện Đông Hải và Giá Rai[10].
Ngày 24 tháng 12 năm 2003, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị định số 166/2003/NĐ-CP, thành lập xã, phường thuộc các huyện Vĩnh Lợi, Phước Long, Hồng Dân, Giá Rai, Đông Hải và thị xã Bạc Liêu[11]. Cuối năm 2004, tỉnh Bạc Liêu gồm có Thị xã Bạc Liêu, huyện Hồng Dân, huyện Phước Long, huyện Vĩnh Lợi, huyện Giá Rai và huyện Đông Hải.
Ngày 26 tháng 7 năm 2005, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị định số 96/2005/NĐ-CP, thành lập huyện Hoà Bình[12]. Tỉnh Bạc Liêu có 7 đơn vị hành chính trực thuộc là thị xã Bạc Liêu, huyện Vĩnh Lợi, huyện Hoà Bình, huyền Hồng Dân, huyện Phước Long, huyện Giá Rai, huyện Đông Hải.
Ngày 27 tháng 8 năm 2010, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 32/NQ-CP về việc thành lập THÀNH PHỐ BẠC LIÊU thuộc tỉnh Bạc Liêu trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên, dân số và các đơn vị hành chính trực thuộc của thị xã Bạc Liêu[13].
Ngày 16 tháng 4 năm 2014, Thủ tướng Chính phủ ban hành quyết định số 537/QĐ-TTg công nhận thành phố Bạc Liêu là đô thị loại II trực thuộc tỉnh Bạc Liêu[14]. Như vậy, thành phố Bạc Liêu cùng với các thành phố Long Xuyên, Cà Mau, Rạch Giá là 4 đô thị loại II của vùng đồng bằng sông Cửu Long. Trong vòng 4 năm được công nhận là thành phố (2010-2014), thành phố Bạc Liêu từ đô thị loại III nhanh chóng đã phát triển lên đô thị loại II, trong khi thành phố Cà Mau từ thành phố đô thị loại III lên đô thị loại II mất đến 11 năm (1999-2010), thành phố Sóc Trăng lên thành phố đô thị loại III từ năm 2007 (trước thành phố Bạc Liêu 3 năm) nhưng đến nay vẫn chưa được lên đô thị loại II.
Ngày 11 tháng 5 năm 2015, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Quyết định thành lập thị xã Giá Rai trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của huyện Giá Rai.
Kinh tế[sửa | sửa mã nguồn]
Năm 2011, Mặc dù trong điều kiện còn nhiều khó khăn, nhưng tình hình kinh tế và xã hội tỉnh Bạc Liêu tiếp tục duy trì ổn định và phát triển. Trong đó, tổng sản phẩm trong tỉnh (GDP) đạt 9.826 tỷ đồng, tăng 12% so với năm 2010. Thu nhập bình quân đầu người trong năm 2011 đạt gần 25 triệu đồng (tương đương 1.123 USD), cơ cấu kinh tế gồm khu vực nông nghiệp chiếm 51,7%, công nghiệp xây dựng chiếm 24,52% và dịch vụ chiếm 23,78% trong GDP. Tổng vốn đầu tư phát triển năm 2011 thực hiện 5.603 tỷ đồng, chiếm khoảng 25,83% GDP. Giá trị sản xuất nông nghiệp đạt 9.958 tỷ đồng, tăng 7,8% so với cùng kỳ, sản lượng lương thực 900 ngàn tấn, sản lượng thuỷ sảnkhai thác và nuôi trồng cả năm lên trên 250 ngàn tấn, giá trị sản xuất công nghiệp của tỉnh lên 4.356 tỷ đồng. Kim ngạch xuất khẩu thực hiện 260 triệu USD, chỉ số giá cả năm tăng 16,5%, tổng mức lưu chuyển hàng hoá đạt 18.060 tỷ đồng. Doanh thu du lịch đạt gần 470 tỷ đồng, với khoảng 530 ngàn lượt du khách (Trong đó có khoảng 17.000 lượt khách Quốc tế). chỉ số năng lực cạnh tranh của tỉnh được cải thiện đáng kể. Trong năm, tỉnh đã tiếp nhận và xúc tiến đầu tư 42 dự án, trong đó đã đồng ý chủ trương đầu tư 25 dự án, với tổng số vốn đăng ký 1.107 tỷ đồng và 225 triệu USD. Tổng thu ngân sách trên địa bàn thực hiện 1.484 tỷ đồng, trong đó, thu trong cân đối 871 tỷ đồng. Tổng chi ngân sách địa phương trong cân đối đạt 2.490 tỷ đồng, bằng 106,9% dự toán, bằng 97,9% so năm 2010. Kết quả giải ngân vốn đầu tư xây dựng cơ bản khu vực Nhà nước ước thực hiện 2.062/2.155 tỷ đồng, đạt 95,6%. Tổng các nguồn vốn huy động đạt 12.000 tỷ đồng, tăng 12%, trong đó huy động tại địa phương tăng 19%, tổng dư nợ cho vay đạt 9.800 tỷ đồng, tăng 17%, cho vay trung và dài hạn đạt 3.300 tỷ đồng, tăng 13% so với năm 2010[15].
Trong năm 2011, có 78% rác thải đô thị được thu gom, 94% hộ nhân dân sử dụng nước hợp vệ sinh, trong đó khu vực nông thôn là 54%. Hoạt động quản lý khoa học và công nghệ có sự chuyển biến tích cực, chất lượng thẩm định các đề tài khoa học từng bước được nâng lên, nhiều đề tài, dự án đã đưa vào ứng dụng mang lại hiệu quả thiết thực, góp phần nâng cao năng suất lao động trên nhiều lĩnh vực và cải thiện đời sống người dân[15].
Trong giai đoạn 6 tháng đầu năm 2012, Tuy có sự ảnh hưởng của suy thoái kinh tế thế giới và những khó khăn trong nước, nhưng tình hình kinh tế - xã hội tiếp tục có những chuyển biến tích cực. Tổng sản phẩm trong tỉnh (GDP) đạt 3.626 tỷ đồng (theo giá so sánh 1994), tăng 11,87% so cùng kỳ, trong đó Khu vực nông nghiệp tăng 8,96%, công nghiệp - xây dựng tăng 13,95% và dịch vụ tăng 14,15% so với cùng kỳ. Các chỉ tiêu kinh tế như giá trị sản xuất công nghiệp, kim ngạch xuất khẩu, sản lượng lương thực, thu ngân sách, tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội đều có mức tăng trưởng so cùng kỳ. Một số chỉ tiêu được xếp ở vị trí khá so với các tỉnh miền Tây Nam bộ như Tăng trưởng kinh tế ở vị trí 2/22 tỉnh, thành phố. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội 3/22 tỉnh, thành phố. thu ngân sách 7/22 tỉnh, thành phố. số doanh nghiệp vừa và nhỏ ngừng hoạt động và tỷ lệ nợ xấu thấp nhất so các tỉnh thành trong khu vực[16].
Lịch sử phát triển dân số | |||||||||||||||||||
Năm | Dân số | ||||||||||||||||||
1995 | : 709.500 | ||||||||||||||||||
1996 | : 716.300 | ||||||||||||||||||
1997 | : 724.200 | ||||||||||||||||||
1998 | : 732.100 | ||||||||||||||||||
1999 | : 738.200 | ||||||||||||||||||
2000 | : 749.700 | ||||||||||||||||||
2001 | : 764.200 | ||||||||||||||||||
2002 | : 777.400 | ||||||||||||||||||
2003 | : 789.100 | ||||||||||||||||||
2004 | : 801.300 | ||||||||||||||||||
2005 | : 812.800 | ||||||||||||||||||
2006 | : 823.800 | ||||||||||||||||||
2007 | : 835.800 | ||||||||||||||||||
2008 | : 847.500 | ||||||||||||||||||
2009 | : 856.800 | ||||||||||||||||||
2010 | : 863.300 | ||||||||||||||||||
2011 | : 873.300 | ||||||||||||||||||
2013 | : 876.800 | Nguồn:[17] |
Tháng 12 năm 2012, thực hiện theo Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 03 tháng 1 năm 2012. Do đó, Sản xuấtnông nghiệp về diện tích gieo trồng và sản lượng thu hoạch đều tăng trưởng so với cùng kỳ, công tác phòng trừ sâu hại và dịch bệnh được triển khai thực hiện tốt, nhờ thực hiện tốt các kiểm soát, kiểm dịch nên chăn nuôi gia súc, gia cầm phát triển tốt và tăng so với cùng kỳ, giá trị sản xuất công nghiệp trong 12 tháng tăng 15,5% so với cùng kỳ, tổng giá trị hàng hóa xuất khẩu tăng 20,3% so với cùng kỳ, tổng nguồn vốn đầu tư cho xây dựng tăng 17% so với cùng kỳ. Về tài chính, mặc dù đang trong giai đoạn thực hiện Nghị quyết số 13/NQ-CP của Chính phủ về tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp nên nguồn thu trong cân đối tăng chậm, tổng thu trong cân đối ngân sách tăng 19% so với cùng kỳ, thu quản lý qua ngân sách trên địa bàn tỉnh tăng 16,7% so với cùng kỳ. Bên cạnh đó, các mặt công tác Văn hóa - Xã hội và An ninh - Quốc phòng tiếp tục ổn định và giữ vững, công tác thanh tra, tư pháp thực hiện theo kế hoạch đề ra đạt hiệu quả, đúng quy định của pháp luật, tình hình tai nạn giao thông so với tháng trước giảm cả 03 mặt, về số vụ, số người chết và số người bị thương[18]
Cao ốc Bạc Liêu[sửa | sửa mã nguồn]
Baclieu Tower từng là tòa nhà cao nhất Đồng bằng sông Cửu Long thời điểm tòa nhà này được khánh thành (năm 2011), cao 18 tầng, nằm tại trung tâm thành phố Bạc Liêu, đối diện bưu điện tỉnh Bạc Liêu, có vị trí đẹp nhất trung tâm thành phố.
Tòa nhà này đã được đầu tư của PetroVietnam, khởi công từ ngày 29 Tháng Chín năm 2010 và khánh thành vào ngày 30 Tháng Tư năm 2011.
Baclieu Tower có 18 tầng, bao gồm 1 tầng hầm, từ sân thượng của tòa nhà, bạn có thể thấy tổng quan về thành phố Bạc Liêu, một thành phố trẻ và năng động.
Tòa nhà này đã được quy hoạch trung tâm thương mại, khách sạn, trung tâm hội nghị, văn phòng... Tuy nhiên, nó vẫn chưa đi vào hoạt động vì không ai thuê (do giá mặt bằng khá cao). Hiện nay, chỉ có quán cà phê Thanh Niên kinh doanh ở trước tòa nhà.
Nó đã được bán đấu giá bằng cách tự đầu tư với giá khoảng 240 tỷ đồng, nhưng không ai mua cho đến bây giờ.
Dân cư[sửa | sửa mã nguồn]
Tính đến năm 2011, dân số toàn tỉnh Bạc Liêu đạt gần 873.300 người, mật độ dân số đạt 354 người/km²[19] Trong đó dân số sống tại thành thị đạt gần 234.700 người[20], dân số sống tại nông thôn đạt 638.600 người[21]. Dân số nam đạt 434.500 người[22], trong khi đó nữ đạt 438.800 người[23]. Tỷ lệ tăng tự nhiên dân số phân theo địa phương tăng 10,1 ‰[24]
Bạc Liêu có ba dân tộc chủ yếu là Kinh, Hoa và Khmer. Sự hòa quyện văn hóa giữa ba dân tộc đã tạo cho Bạc Liêu một nền văn hóa rất riêng biệt khó trộn lẫn từ văn hóa ẩm thực cho đến phong cách sống, giao tiếp hàng ngày.
Du lịch[sửa | sửa mã nguồn]
Thăm di tích, thắng cảnh...
Vùng đất Bạc Liêu có nhiều di tích ghi dấu những sự kiện từ ngày đầu khai hoang mở đất. Đây còn là vùng đất hội tụ văn hóa của ba dân tộc Kinh - Hoa - Khmer thể hiện qua những công trình văn hóa độc đáo, tạo nên vẻ đẹp riêng Bạc Liêu.
Trước hết, phải kể đến di tích cấp quốc gia Tháp cổ Vĩnh Hưng. Di tích này nằm cách thành phố Bạc Liêu khoảng 20 km về hướng Tây Bắc, thuộc ấp Trung Hưng 1, xã Vĩnh Hưng A, huyện Vĩnh Lợi. Đây là công trình kiến trúc nghệ thuật có niên đại 892 sau Công nguyên. Những cổ vật được phát hiện nơi này đã "kể lại" những ngày vàng son của nền văn hóa Óc Eo một thời.
Trở lại thành phố Bạc Liêu, du khách hãy đến xem đồng hồ Thái Dương, một sản phẩm của nhà bác vật đầu tiên ở Việt Nam - ông Lưu Văn Lang (1880-1969). Đồng hồ Thái Dương được xây dựng bằng gạch và xi măng, chỉ dựa vào hướng đi của ánh nắng mặt trời để báo giờ.
Quần thể nhà Công tử Bạc Liêu tọa lạc trên đường Điện Biên Phủ (phường 3) là địa chỉ không thể bỏ qua của du khách khi đến Bạc Liêu. Đây là nhà của ông Trần Trinh Trạch, cha của Trần Trinh Huy - người được mệnh danh là Công tử Bạc Liêu. Ngôi nhà xây dựng năm 1919 được coi là bề thế nhất của Bạc Liêu thời đó, do kỹ sư người Pháp thiết kế và có nhiều vật liệu phải chở từ Pháp sang. Nhà Công tử Bạc Liêu hiện được bày biện, phục tráng gần như nguyên trạng.
Du khách muốn tận hưởng không khí mát dịu trong lành của rừng hoang sơ giữa lòng thành phố Bạc Liêu, hãy đến với vườn chim Bạc Liêu, cách trung tâm thành phố 6 km về hướng biển. Đây là cảnh quan độc đáo mà thiên nhiên ban tặng cho Bạc Liêu, cũng là thảm rừng ngập mặn quý hiếm còn sót lại ở Việt Nam, là nơi cư trú của nhiều loài động, thực vật quý hiếm...
Giữa lòng thành phố Bạc Liêu còn có khu du lịch sinh thái Hồ Nam, một trong sáu điểm du lịch tiêu biểu đồng bằng sông Cửu Long ở Bạc Liêu… Khu du lịch này có vị trí đắc địa về phong thủy với hồ nước rộng đến 12ha bốn bề lộng gió, hệ thống các dịch vụ vừa hiện đại, vừa mang đậm tính dân dã truyền thống của Bạc Liêu xưa, đáp ứng nhu cầu vui chơi, giải trí, nghỉ dưỡng...
Sau khi ngắm vườn chim, thăm vườn nhãn cổ, xem cây xoài 300 tuổi, một điểm không thể bỏ qua là khu Quán âm Phật đài được xây dựng gần cửa biển Nhà Mát - một công trình kiến trúc, văn hóa, tâm linh nổi tiếng ở Bạc Liêu. Cách đây không xa lại có thêm khu biển nhân tạo vừa được mở cửa để phục vụ du khách. Ngoài ra, Bạc Liêu còn có rất nhiều đình, chùa và các đền thờ được xây dựng để thờ các vị tiền nhân có công lao đối với quê hương Bạc Liêu (chùa Vĩnh Đức, chùa Long Phước, chùa Xiêm Cán, chùa Giác Hoa, đình thần Nguyễn Trung Trực, đình Tân Hưng...). Đặc biệt, Bạc Liêu còn có Đền thờ Bác Hồ ở xã Châu Thới, huyện Vĩnh Lợi với khuôn viên rộng 6.000m2; khu di tích Đồng Nọc Nạng (thị xã Giá Rai); khu di tích Ninh Thạnh Lợi (huyện Hồng Dân); khu lưu niệm Nghệ thuật đờn ca tài tử Nam bộ và nghệ nhân Cao Văn Lầu...
Vừa qua hiệp hội du lịch đồng bằng sông Cửu Long đã công nhận thêm 3 điểm du lịch tiêu biểu vùng đồng bằng sông Cửu Long năm 2014 ở Bạc Liêu là: Quảng trường Hùng Vương (thành phố Bạc Liêu),Khu nhà công tử Bạc Liêu (thành phố Bạc Liêu),Khu biển nhân tạo thuộc khu du lịch Nhà Mát (thành phố Bạc Liêu) nâng tổng số điểm du lịch tiêu biểu của tỉnh lên 6 điểm du lịch nhiều nhất toàn vùng.
Khám phá những giá trị văn hóa phi vật thể
Bên cạnh những di tích vật thể thì Bạc Liêu còn độc đáo bởi những giá trị văn hóa phi vật thể như các lễ hội, phong tục, tập quán cổ truyền. Đó là các lễ hội Kỳ yên, lễ hội Phật giáo Thượng Ngươn, Trung Ngươn, Hạ Ngươn; lễ hội Chôl Chnăm Thmây, Oóc-om-bóc, Đôn-ta của người Khmer; lễ Giỗ tổ cổ nhạc, lễ cúng Thanh minh...
Văn hóa ẩm thực cũng tạo nên nét đặc trưng cho vùng đất cuối trời Nam này. Ẩm thực Bạc Liêu mang sắc thái dân tộc và yếu tố bản địa vùng miền. Nhiều món ăn tạo nên thương hiệu Bạc Liêu như bún bò cay, bánh xèo, bún nước lèo…
Bạc Liêu là một trong những cái nôi của đờn ca tài tử Nam bộ. Đây là nơi sinh ra các nhạc sư, nghệ nhân nổi tiếng, nhiều ca sĩ, nghệ sĩ lừng danh… Và nói đến đất nước - con người Bạc Liêu, không thể không nhắc đến những trang sử vẻ vang của hai lần giành lại chính quyền từ tay giặc không đổ máu, những cuộc nổi dậy của nông dân Ninh Thạnh Lợi, nông dân Nọc Nạng... Tất cả làm nên một Bạc Liêu với nhiều kỳ tích!
Một sức hấp dẫn rất Bạc Liêu sẽ không chỉ dừng lại ở những địa điểm du lịch, những nét văn hóa phi vật thể độc đáo mà còn quyến rũ bởi văn hóa ứng xử, văn hóa giao tiếp, văn hóa làm du lịch của Bạc Liêu. Du khách về thăm Bạc Liêu hãy cảm nhận sức hấp dẫn, sự quyến rũ ấy bằng chính giác quan và cảm quan của mình![25]
- Hiện nay Bạc Liêu chiếm 8/25 điểm du lịch tiêu biểu của ĐBSCL và dẫn đầu khu vực.
- Trong năm 2015 du lịch Bạc Liêu đã có bước chuyển mình mạnh mẽ. Theo đó trong năm 2015 tỉnh đã đón 1,1 triệu lượt khách, doanh thu du lịch đạt gần 1000 tỷ đồng.
- Ngành du lịch Bạc Liêu phấn đấu đến năm 2030 tỉnh sẽ đón 4 triệu lượt khách du lịch.
Giáo dục & Y tế[sửa | sửa mã nguồn]
Giáo dục[sửa | sửa mã nguồn]
Hệ thống giáo dục của tỉnh Bạc Liêu có nhiều cấp học, bao gồm giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông và giáo dục chuyên nghiệp. Theo thống kê đến ngày 30 tháng 9 năm 2007, Bạc Liêu có 234 trường học ở các cấp phổ thông, thấp nhất khu vực Đồng bằng Sông Cửu Long[26]. Sáng ngày 20 tháng 07 năm 2009, 100% xã, phường, thị trấn trong toàn tỉnh có phòng học kiên cố. Toàn tỉnh Bạc Liêu có:
- 64 trường Mầm non
- 154 trường Tiểu học
- 67 trường trung học cơ sở
- 85 trường Trung học
- 1 trường Đại học (ĐH Bạc Liêu)
Chỉ tiêu phổ cập đúng độ tuổi và THCS đều đạt và vượt tiêu chuẩn do Bộ Giáo dục & Đào tạo quy định: 96,93% đối tượng tốt nghiệp lớp 9; 81,35% đối tượng từ 15-18 tuổi có bằng tốt nghiệp THCS, trẻ em 6 tuổi vào lớp 1 đạt 99,10%, trẻ em 11-14 tuổi tốt nghiệp Tiểu học đạt 90,79%. 31/61 xã, phường đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi.
Y tế[sửa | sửa mã nguồn]
Giao thông[sửa | sửa mã nguồn]
- Đường bộ:
- Quốc lộ 1 đi qua huyện Vĩnh Lợi, thành phố Bạc Liêu, huyện Hòa Bình và thị xã Giá Rai.
- Tỉnh lộ 1, nối huyện Hồng Dân với Thành phố Bạc Liêu, đi qua các huyện Hồng Dân, Phước Long, Vĩnh Lợi, Hòa Bình.
- Tỉnh lộ 2, nối thị trấn Phước Long với quốc lộ 1 tại xã Vĩnh Mỹ B huyện Hòa Bình, để đến thành phố Bạc Liêu, tỉnh lộ 2 đi qua huyện Phước Long, Hòa Bình.
- Quản Lộ - Phụng Hiệp: nối thị xã Ngã bảy với thành phố Cà Mau, đi qua huyện Phước Long và thị xã Giá Rai.
- Quốc lộ 91C - đường Nam Sông Hậu, chạy dọc theo sông Hậu và biển Đông, nối thành phố Cần Thơ với thành phố Bạc Liêu.
- Tuyến đường đê biển, chạy dọc theo bờ biển Bạc Liêu, nối thị trấn Gành Hào với thành phố Bạc Liêu, đi qua thành phố Bạc Liêu, huyện Hòa Bình, Đông Hải.
- Các tỉnh lộ khác nối các huyện với nhau, huyện lộ nối các xã với thị trấn, các tuyến đường nông thôn,...
Đặc điểm chung của các tuyến đường ở Bạc Liêu (trừ các tuyến đường ở thành phố và thị trấn) là đều nằm cạnh một con sông, con kênh nhất định. Đây cũng là đặc điểm của giao thông miền Tây Nam Bộ
- Đường thủy: Bạc Liêu chỉ có 2 con sông tự nhiên nằm ở phía bắc và phía nam của tỉnh đó là sông Gành Hào - ranh giới tự nhiên với tỉnh Cà Mau và sông Cái - ranh giới tự nhiên với tỉnh Hậu Giang, còn lại trên địa bàn tỉnh là các kênh đào. Giống như các tỉnh khác ở miền Tây, Bạc Liêu sở hữu cho mình một hệ thống kênh rạch chằng chịt nhưng đa phần là các con kênh nhỏ, chỉ có một vài con kênh lớn, lớn nhất là kênh Bạc Liêu - Cà Mau và kênh Quản Lộ - Phụng Hiệp. Kênh rạch ở Bạc Liêu chia làm 2 phần riêng biệt, từ kênh Bạc Liêu - Cà Mau trở xuống phía Nam đến bờ biển, nước của các con kênh ở đây là nước mặn, hệ sinh thái dưới nước của các con kênh này là hệ sinh thái nước mặn. Còn từ kênh Bạc Liêu - Cà Mau trở ra phía Bắc, nước của các con kênh ở đây là nước ngọt, hệ sinh thái dưới nước của các con kênh này là hệ sinh thái nước ngọt. Vào mùa khô, đôi khi tình trạng xâm nhập mặn vào các con kênh nội đồng vẫn còn hay xảy ra.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét